
Dư nợ xanh tăng nhưng chưa đủ lực đẩy
Đến cuối năm 2023, dư nợ tín dụng xanh trong hệ thống ngân hàng Việt Nam đạt khoảng 564.000 tỉ đồng, chiếm 4,4% tổng dư nợ toàn ngành. Đây là con số đáng khích lệ so với năm 2015 – thời điểm tín dụng xanh chỉ vào khoảng 71.000 tỉ đồng. Tuy nhiên, nếu đặt trong bối cảnh mục tiêu quốc gia là đạt mức 10% vào năm 2025 và 25% vào năm 2030, thì khoảng cách hiện tại vẫn còn lớn.
Tình trạng này diễn ra bất chấp những cam kết mạnh mẽ về chuyển đổi xanh mà Việt Nam đã đưa ra trên trường quốc tế, bao gồm việc tham gia Đối tác chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP) với tổng giá trị tài chính cam kết lên đến 15,5 tỉ USD. Tuy nhiên, đến nay, các khoản vốn quốc tế như JETP hay các dòng vốn ODA khí hậu vẫn chưa được giải ngân đáng kể do vướng mắc ở nhiều khâu, đặc biệt là từ phía năng lực tiếp nhận và triển khai trong nước.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết đến quý I/2024, tổng dư nợ tín dụng xanh đã tăng lên khoảng 637.000 tỉ đồng, tương đương 24,9 tỉ USD. Tuy nhiên, tỷ lệ trong tổng dư nợ toàn hệ thống vẫn chỉ dao động ở mức 4,5% – gần như không có chuyển biến đáng kể so với cuối năm trước. Như vậy, quy mô tín dụng xanh tuy có tăng tuyệt đối nhưng vẫn chưa tạo ra sức bật đủ lớn trong nền kinh tế.
Thực tế này phản ánh việc các dòng tiền mang danh nghĩa “xanh” vẫn chưa thực sự đến được đúng chỗ – tức là các dự án có khả năng giảm phát thải, thích ứng biến đổi khí hậu, và tạo ra tác động xã hội tích cực. Dù doanh nghiệp và ngân hàng đều nhận thức được xu hướng toàn cầu, nhưng triển khai thực tế lại đang chậm và thiếu động lực đủ mạnh.
Vướng thể chế, thiếu hạ tầng thị trường xanh
Một trong những điểm nghẽn rõ nhất hiện nay nằm ở khung pháp lý và tiêu chí xác định dự án xanh. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, cùng với Nghị định 08/2022 và Thông tư 17/2022 của Ngân hàng Nhà nước, đã đưa ra khung khái niệm và hướng dẫn cấp tín dụng xanh. Tuy nhiên, theo phản ánh của nhiều ngân hàng, các văn bản này mới chỉ mang tính khái quát, chưa đủ cụ thể để áp dụng đồng bộ cho từng lĩnh vực, từ năng lượng tái tạo, nông nghiệp carbon thấp đến giao thông bền vững.
Việc thiếu tiêu chí rõ ràng khiến quá trình thẩm định dự án mất nhiều thời gian. Nhiều tổ chức tín dụng, đặc biệt ở cấp chi nhánh địa phương, chưa có năng lực phân tích rủi ro môi trường, thiếu quy trình giám sát dòng tiền theo chuẩn mực quốc tế. Trong khi đó, các cơ chế hỗ trợ như bảo lãnh tín dụng xanh, bảo hiểm rủi ro hay ưu đãi lãi suất gần như chưa được triển khai thực chất.
Ở khía cạnh thị trường vốn, dù một số ngân hàng như BIDV và Vietcombank đã phát hành trái phiếu xanh nội địa, quy mô vẫn còn hạn chế. Thị trường thứ cấp chưa phát triển, khiến thanh khoản thấp và không hấp dẫn nhà đầu tư tổ chức trong nước. Ngoài ra, các công cụ khác như cổ phiếu xanh, quỹ đầu tư xanh hay bảo hiểm khí hậu mới chỉ dừng ở mức thử nghiệm hoặc đang trong quá trình xây dựng khung pháp lý.
Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), để vốn xanh phát huy được hiệu quả, Việt Nam cần đồng thời hoàn thiện tiêu chuẩn hóa danh mục tín dụng xanh, xây dựng hệ thống công bố thông tin và đánh giá độc lập, cũng như tăng cường năng lực thẩm định kỹ thuật cho cả bên cho vay và bên đi vay. Quan trọng hơn, cần một thị trường vốn có chiều sâu để tiếp nhận và luân chuyển các dòng tiền này một cách hiệu quả, thay vì để chúng “nằm chờ” trên sổ sách.